Kiều Tùng Chiến – Thơ và đời

                           (Nguyễn Hùng – CLB Thơ Đường Nhà Giáo)
                                                 =========

      Có điểm chung là yêu thơ, nên tôi biết về Kiều Tùng Chiến và từ chỗ đồng cảm trở nên tri kỷ.

      Anh Kiều Tùng Chiến sinh năm 1959, bắt đầu làm thơ năm 1977. Anh làm thơ tặng người yêu và đã trở thành bạn đời, nay đều đã lên vai ông bà. Cảm hứng thi ca của anh khá sớm khi anh làm thơ tự do, thơ lục bát và có bạn đời bên cạnh là nguồn.

     Còn đến với thơ Đường thì mãi đến năm 2003,, một bạn thơ đánh máy vi tính mới tình cờ phát hiện ra “trái tim giấu kín này”. Cũng từ đó, anh bắt đầu giao lưu và say thơ Đường như điếu đổ. Anh tâm sự, thể thơ khác rất dễ, bởi muốn tả bao nhiêu câu cho rõ điều định nói cũng được, còn với thơ Đường phải khép mọi cảm xúc của mình tối đa trong 56 từ. Đó là một khuôn phép bất di bất dịch và tôi thấy tính cách của anh cũng phần nào “khuôn phép” như thế.

     Các bài thơ Đường anh làm hầu hết là chính luật, kể cả “nhất tam ngũ bất luận” anh cũng luận luôn. Vì thế, tôi muốn tìm sạn trong thơ anh cũng khó tìm được. Ngôn ngữ anh dùng rất bình dị, đối đáp chỉn chu. Bài Mừng Quý Tỵ được xem là tự sự mới của anh:

     “Quý Tỵ vui mừng mấy đại khoa
     Niềm tin đảng tặng quý hơn quà
     Ba mươi sắc đỏ vừa dâng hiến
     Sáu chục xuân hồng sắp lướt qua...”

    Quả là một mốc son đáng tự hào của một đảng viên – cựu chiến binh Kiều Tùng Chiến đến nay. Các vần xen kẽ giữa thanh “không” và thanh “huyền” làm cho âm hưởng bài thơ thêm uyển chuyển, nhịp nhàng. Có rất nhiều bài anh viết, không mấy khi bắt gặp có hai thanh giống hệt nhau đi liền, nghe thật khoái tai (khoa, quà, qua, hòa, hoa).

    “Hưu nhàn bẵm cháu thay phần vợ”. Anh dùng chữ “bẵm” rất chân quê. Cũng xin nói thêm về việc “thay phần vợ” của anh, vì “nghỉ hưu non” từ khi mới 34 tuổi, mà chị nhà thì hiện giờ còn đang công tác.

     Thơ anh Chiến quan tâm nhiều đến các nghịch lý xã hội, bức xúc thì phóng bút, tuy nhiên lời lẽ nhẹ nhàng, dễ chấp nhận. Bài thơ “Thuốc nghĩa địa” gồm 20 câu thì 16 câu chia làm 8 cặp đối rất tinh tế:



     “Anh phì phượng cuốn nhòa sông nước
     Bố nhả rồng leo rám núi đồi...”, đây là hình ảnh khoái lạc mà tai hại.
     "Mà sao sản xuất càng tăng tiến
      Vẫn cứ lưu thông đến tái hồi...”, thật trớ trêu, hại thế mà vẫn cho sản xuất lưu thông mạnh mẽ đến lạnh lùng.

     Bài “Mẹ tôi” anh diễn đạt rất sâu đậm tình mẫu tử: “Mẹ là bố lúc chiến tranh, Mẹ là bác sỹ của anh em mình...”. Vâng, đất nước mình trải qua bao cuộc chiến tranh, quá nhiều bà mẹ vừa tần tảo nuôi con, lại vừa đảm trách phần bố trong quãng đời của những đứa con vắng cha, thậm chí mất cha sau những cuộc trường chinh vệ quốc. Mẹ là bác sỹ, hơn cả bác sỹ nữa chứ, nghe từng hơi thở của con mỗi khi trái nắng trở trời và vò võ nhìn vào xa xăm ngóng chồng biết bao giờ sum họp.

     Nhìn chung, thơ Kiều Tùng Chiến thấm đẫm tình người, giàu chất nhân văn khi luận đàm chuyện xã hội, gai gợn.Tôi thật tiếc là anh rất ít viết thơ tình, mặc dù bút lực của anh rất sung mãn, tình cảm của anh rất dồi dào. Dù sao, thơ anh có tâm hồn cốt cách, có ấn tượng và đọng lại trong tâm rất nhiều người đọc, ít nhất cũng là ở Hưng Yên quê lúa chúng tôi.


Chúc anh khỏe và ngày càng có nhiều thơ hay cho đời./.
Hưng Yên, những ngày tháng 4 năm 2013

0 nhận xét:

Đăng nhận xét